Điểm khác nhau giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế
Ngày nay, xu hướng tiến theo chuẩn mực kế toán quốc tế luôn được các doanh nghiệptrong nước đặt lên hàng đầu. Hệ thống kế toán và chuẩn mực quốc tế về kế toán (IASs/IFRSs) được soạn thảo bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Nó được soạn thảo và công bố theo những quy trình rất chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực và đảm bảo tính thực hành cao.
1. Về hình thức:
Về mặt hình thức, hệ thống kế toán quốc tế (IAS) không có sự bắt buộc nào về mặt hình thức, điều này khác với hệ thống kế toán Việt Nam (VAS). IAS mặc
dù đưa ra rất chi tiết các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những
thông tin bắt buộc phải trình bày trong các báo cáo tài chính nhưng IAS không bắt
buộc phải sử dụng chung các biểu mẫu báo cáo tài chính, hệ thống tài khoản, các
hệ thống chứng từ, sổ kế toán. IAS có bộ khung khái niệm và tính thống nhất cao
giữa các chuẩn mực. VAS còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thiếu nhiều vấn đề và đặc
biệt là còn mâu thuẫn giữa các chuẩn mực hoặc sự không thống nhất giữa chuẩn mực
và hướng dẫn về chuẩn mực đó.
Hầu hết mọi người theo chuẩn mực kế toán quốc tế đều cho rằng, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ nên mang tĩnh hướng dẫn mà không nên mang tính bắt buộc. Thông lệ kế toán quốc tế cho phép ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều có trong cũng một định khoản, tuy nhiên không nên lạm dụng ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều có trong cùng một định khoản vì điều đó có thể làm mất đi tính rõ ràng của kế toán. Mặc dù không có văn bản quy phạm nào quy định cấm ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản kế toán, nhưng theo một thói quen từ xưa, rất nhiều DN Việt Nam vẫn tuân theo nguyên tắc này. Tuy nhiên, nhiều DN nước ngoài tại Việt Nam lại không áp dụng.
Hệ thống tài
khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ quan tâm chủ yếu đến thông tin của
báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư chứ chưa quan tâm đến thông tin quản trị nội
bộ. Theo thông lệ quốc tế, tên gọi tài khoản chính là tên gọi ngắn gọn của số
dư tài khoản hay chỉ tiêu cần quản lý. Không ghép chung nhiều chỉ tiêu khác
nhau vào chung một tài khoản. Các chỉ tiêu khác nhau phải được ghi chép và báo
cáo theo các tài khoản riêng biệt.
2. So sánh bảngcân đối kế toán
IAS khác VAS
trong hầu hết khoản mục của bảng cân đối kế toán như kế toán tiền, DN ghi độc lập
với ngân hàng. Các khoản phải thu thương mại tách biệt với các khoản phải thu từ
bán tài sản cố định (TSCĐ). Giá thành phẩm được tính theo phương pháp giá thành
thông thường hơn là thực tế và nó không chấp nhận phương pháp LIFO. Các tài sản
sinh vật và sản phẩm nông nghiệp thu hoạch từ các tài sản sinh vật được ghi nhận
theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí điểm bán hàng ước tính. Các khoản chứng
khoán thương mại ngắn hạn được ghi nhận theo giá trị hợp lý (giá thị trường) cuối
mỗi kỳ, chênh lệch được ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện trên báo cáo kết quả. Các
khoản chứng khoán sẵn sàng để bán cũng được điều chỉnh theo giá trị hợp lý cuối
kỳ, nhưng nó được ghi tăng giảm vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán không
ghi vào báo cáo lãi lỗ. Việc nhận cổ tức bằng cổ phiếu không ghi tăng thu nhập
mà chỉ thuần túy ghi bút toán ghi nhớ làm tăng số lượng cổ phiếu lên, đồng thời
giảm đơn giá vốn nhưng tổng giá vốn không đổi.
Các khoản đầu
tư bằng trái phiếu được ghi nhận theo giá vốn đã trừ (cộng) khấu hao chiết khấu
(phụ trội). Đầu tư vào công ty liên doanh được hợp nhất theo phương pháp hợp nhất
tương ứng, giải pháp thay thế là theo phương pháp vốn chủ sở hữu. VAS chỉ đưa
ra phương pháp vốn chủ sở hữu. Phương pháp hợp nhất tương ứng khác với hợp nhất
thông thường ở chỗ chỉ phần tài sản, nợ phải trả, thu nhập và chi phí thuộc sở
hữu tập đoàn là được đưa vào trong tài khoản báo cáo. Nó không có lợi ích thiểu
số (minority interests). Việc hợp nhất các báo cáo tài chính bắt buộc thực hiện
cho cả báo cáo năm và báo cáo giữa niên độ.
TSCĐ có thể
lựa chọn mô hình giá phí hoặc áp dụng mô hình giá trị hợp lý nếu nó có thể đo
lường một cách đáng tin cậy. Chênh lệch giá trị hợp lý giữa các kỳ được ghi vào
vốn chủ sở hữu. Riêng đối với bất động sản đầu tư, chênh lệch này được phép ghi
vào lãi lỗ trên báo cáo kết quả. Tuy nhiên, khi dùng mô hình giá trị hợp lý,
trong phần thuyết minh, DN vẫn phải thuyết minh giá gốc của nó để nhà đầu tư có
thể tự đánh giá và so sánh. TSCĐ được cho tặng ghi vào thu nhập phần phù hợp với
chi phí để nhận được tiền cho tặng đó (phần khấu hao của kỳ đó chẳng hạn). Khi
tài sản cố định hữu hình hoặc vô hình và tài chính bị giảm giá trị, IAS yêu cầu
ghi nhận ngay vào chi phí. Theo IAS, đất đai thuộc tài sản hữu hình. Các khoản
phải trả thương mại được tách biệt với các khoản phải trả do mua sắm TSCĐ hay
mua tài sản tài chính. Khoản phải trả bao gồm cả các khoản thưởng và chi phí
phúc lợi cho nhân viên. Vốn chủ sở hữu không bao gồm các quỹ khen thưởng, phúc
lợi (Theo VAS trước ngày 31.12.2009 quỹ khen thưởng phúc lợi nằm trong mục lớn
Vốn chủ sở hữu, tuy nhiên theo thông tư 244/2009/TT-BTC ngày 31.12.2009 quy định
vấn đề này giống như IAS). Các khoản đánh giá lại tài sản được ghi tăng giảm vốn
chủ sở hữu.
3. So sánh
báo cáo kết quả kinh doanh
Để việc so
sánh và quản trị được tốt hơn, theo IFRSs, lãi hoạt động kinh doanh là các khoản
lãi lỗ từ các hoạt động kinh doanh thông thường của DN, nó không bao gồm các
khoản thu nhập và chi phí tài chính. Chi phí tài chính theo thông lệ quốc tế chỉ
đơn giản là chi phí lãi vay và các chi phí trực tiếp liên quan đến vay tiền bao
gồm cả việc lãi lỗ do thay đổi tỷ giá ngoại tệ phát sinh từ việc vay tiền như một
khoản chi phí lãi vay. Các chi phí khác và thu nhập khác theo IAS bao gồm như bất
động sản đầu tư theo mô hình giá trị hợp lý, các khoản chênh lệch giá trị hợp
lý cuối kỳ so với đầu kỳ được ghi nhận là lãi lỗ trong báo cáo tài chính kỳ đó.
Theo VAS, chỉ áp dụng phương pháp giá gốc trừ đi khấu hao lũy kế. Do vậy, không
có khoản lãi, lỗ này phát sinh. Trường hợp tài sản cố định được chính phủ cho tặng,
theo IAS, DN chỉ được ghi nhận như một khoản thu nhập trong các kỳ liên quan để
phù hợp với các chi phí liên quan (khấu hao) mà chúng được nhận để bù đắp. Theo
VAS, nó được ghi nhận toàn bộ thu nhập vào kỳ nhận được tài sản.
Theo IAS, lãi
dùng để tính EPS cơ bản là lãi thuần thuộc các cổ đông. Nó không bao gồm các
khoản lãi, nhưng được dùng để chia cho nhân viên hay đối tượng khác như quỹ
khen thưởng, phúc lợi. VAS không trừ các quỹ này nên rất nhiều tình huống EPS
tính theo VAS cao hơn theo IAS khá nhiều thông thường từ 5 - 15%, cá biệt có thể
lên đến 30%. Theo IAS, EPS pha loãng và EPS cơ bản phải được trình bày trên bề
mặt và nổi bật như nhau trên báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay
VAS chưa có thông tư hướng dẫn chi tiết, nên các DN vẫn không báo cáo EPS pha
loãng trên báo cáo kết quả kinh doanh. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu,
khác với IAS, VAS chưa quy định việc điều chỉnh hồi tố EPS. Trong trường hợp
đó, việc phân tích xu hướng EPS qua các năm theo số liệu EPS gốc (không điều chỉnh)
sẽ bị sai lệnh rất nghiêm trọng.
Theo IAS 27,
các báo cáo tài chính hợp nhất phải được lập cho các báo cáo tài chính năm và
các báo cáo tài chính tạm thời giữa niên độ. Tuy nhiên, theo VAS, việc lập báo
cáo tài chính hợp nhất chỉ bắt buộc đối với báo cáo năm, các báo cáo giữa niên
độ chỉ mang tính khuyến khích. Điều này có nghĩa là báo cáo tài chính giữa niên
độ có thể không đầy đủ và thiếu chính xác. Đây là một lỗ hổng lớn mà các nhà tạo
lập chế độ kế toán phải nhanh chóng chỉnh sửa, tránh những hậu quả lớn cho các
nhà đầu tư mà hiện nay họ đang phải gánh chịu. Báo cáo hợp nhất với các công ty
liên doanh, theo IAS, các doanh nghiệp nên sử dụng phương pháp hợp nhất tương ứng
tuy nhiên có thể sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu. VAS chỉ quy định phương
pháp vốn chủ sở hữu.
4. So sánh
báo cáo lưu chuyển tiền tệ
VAS và thông
tư hướng dẫn cách lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là lấy từ sổ quỹ tiền mặt và sổ
cái tiền gửi ngân hàng tương ứng với các tài khoản đối ứng. Theo thông lệ quốc
tế, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT) chỉ căn cứ thuần túy các số liệu
trên bảng cân đối kế toán số đầu kỳ và cuối kỳ, báo cáo kết quả (và có thể có
thêm một vài thông tin từ sổ cái) sau đó làm các động tác điều chỉnh là ra các
chỉ tiêu trên báo cáo LCTT.
VAS hướng dẫn
cách lập báo cáo LCTT theo phương pháp gián tiếp bắt đầu từ lãi trước thuế cộng
trừ các khoản điều chỉnh trong đó có chênh lệch các khoản phải trả. Mặc dù
trong quy định về báo cáo đã yêu cầu các khoản phải trả này không bao gồm các
khoản phải trả liên quan đến hoạt động đầu tư và tài chính. Tuy nhiên, do Tài
khoản 331 Phải trả cho người bán bao gồm các khoản phải trả thương mại do mua
hàng hóa, nguyên liệu cho sản xuất và phải trả cho việc mua sắm tài sản cố định
hay mua khác. Khi lập báo cáo LCTT, kế toán viên chỉ lấy số dư cuối kỳ trừ số
dư đầu kỳ của Tài khoản 331 này. Do vậy nó làm cho dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh lẫn lộn với dòng tiền từ hoạt động đầu tư.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ