Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

Hạn chế về chính sách chiết khấu thương mại Việt Nam


Chiết khấu thương mại theo chế độ Kế toán Việt Nam
Phần mềmThiên Long xin gửi tới bạn đọc bài viết: “ Chiết khấu thương mại Việt Nam” bài viết bàn về hạn chế trong quy định hạch toán hiện hành trong chế độ kế toán Việt Nam về khoản chiết khấu thương mại do người mua nhiều lần mới được hưởng chiết khấu và cách hạch toán hợp lý hơn theo quy định.
Theo kế toán Việt Nam, chiết khấu thương mại là khoản mà người bán là khoản mà người bán giảm trừ cho người mua do mua hàng với số lượng lớn, có thể thực hiện trong trường hợp mua hàng 1 lần với số lượng lớn được hưởng chiết khấu và trừ vào hóa đơn ngay khi mua, và khoản chiết khấu này được thực hiện theo định kỳ (người mua hàng mua nhiều lần mới đạt chiết khấu). Bài viết này bàn về các hạn chế trong quy định hạch toán hiện hành trong chế độ kế toán Việt Nam về khoản chiết khấu thương mại do người mua nhiều lần mới được hưởng chiết khấu và cách hạch toán hợp lý hơn theo quy định và hướng dẫn của IFRS 15.
Hạch toán chiết khấu thương mại theo chế độ kế toán Việt Nam hiện hành.

 Chế độ kế toán Việt nam hiệ hành theo quy định hạch toán chiết khấu thương mại đối với bên bán như sau:
Đối với trường hợp người mua hàng nhiều lần mới đạt được lượng hàng mua được hưởng chiết khấu thì khoản chiết khấu thương mại này được ghi giảm trừ vào giá bán trên “Hoá đơn GTGT” hoặc “Hoá đơn bán hàng” lần cuối cùng. Theo thông tư 39 thì việc điều chỉnh trên hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trường hợp số tiền chiết khấu được lập khi kết thúc chương trình (kỳ) chiết khấu hàng bán thì được lập hoá đơn điều chỉnh kèm bảng kê các số hoá đơn cần điều chỉnh, số tiền, tiền thuế điều chỉnh. Trường hợp khách hàng không tiếp tục mua hàng, hoặc khi số chiết khấu thương mại người mua được hưởng lớn hơn số tiền bán hàng được ghi trên hoá đơn lần cuối cùng thì phải chi tiền chiết khấu thương mại cho người mua. Khoản chiết khấu thương mại trong các trường hợp này được hạch toán vào Tài khoản 521.
Căn cứ vào hóa đơn điều chỉnh để bên bán hạch toán:
Phản ánh số chiết khấu thương mại thực tế phát sinh trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 521 - Chiết khấu thương mại
Nợ TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311) (Nếu có)
Có các TK 111, 112, 131,...
Theo hướng dẫn hạch toán này, khoản giảm doanh thu nên cần hạch toán như một khoản giảm trừ doanh thu. Tuy nhiên cách hạch toán này tỏ ra không thực sự logic trong một số tình huống sau:
Tình huống 1: Công ty có lập báo cáo giữa niên độ
Với tình huống trên nhưng giả định là công ty A thực hiện chiết khấu cho khách hàng vào hóa đơn cuối cùng của năm 2014. Với cách hạch toán theo quy định của chế độ kế toán hiện hành thì doanh thu thuần của năm 2014 sẽ được phản ánh chính xác vì khoản chiết khấu này làm giảm doanh thu của năm 2014. Tuy nhiên báo cáo tài chính các quý không phản ánh một cách đúng đắn doanh thu thuần của từng quý: Khoản chiết khấu 240 triệu này là cho cả 4 quý chứ không chỉ riêng quý IV!
Tình huống 2:  Chiết khấu thương mại của kỳ này nhưng lại được  trừ vào hóa đơn của kỳ sau.
Lấy ví dụ: Chính sách chiết khấu thương mại của công ty Thiên Long là: Nếu trong năm khách hàng nào đạt doanh số 890 triệu trở lên sẽ được hưởng chiết khấu 2%. Trong năm 2014, khách hàng X mua của công ty A số hàng trị giá 1 tỷ trải đều cho 4 quý, khoản triết khấu này được trừ vào hóa đơn đầu tiên của tháng 1/2015. Nếu hạch toán theo hóa đơn có chiết khấu thì khoản chiết khấu thương mại (2% x 1 tỷ = 20 triệu) sẽ hạch toán giảm doanh thu năm 2015, trong khi khoản chiết khấu này là của năm 2014.
Nguồn: Internet 


0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ